Chào mừng quý vị ghé thăm trang nhà Chùa Bằng - Kính chúc quý vị thân tâm thường lạc, vạn sự kiết tường như ý.
   
 
Tư tưởng Phật giáo › Bài viết
 
Chia sẻ trên Facebook   Twitter bài viết này   Chia sẻ trên Google

Ngày đăng: 03/05/2015 21:17 PM 
Ý nghĩa Bổn môn Pháp hoa
Nói đến Pháp hoa, người ta thường nghĩ đó là bộ kinh Pháp hoa 28 phẩm mà các chùa thường tụng. Nhưng Bổn môn Pháp hoa cũng rút từ 28 phẩm của kinh Pháp hoa và 28 phẩm của kinh Pháp hoa cũng rút từ tam tạng Thánh giáo của Đức Phật. Và tam tạng Thánh giáo này, Phật cũng căn cứ trên hiểu biết của con người.

Tu Pháp hoa phải có cái nhìn rộng, vì chân lý không thể diễn tả, chỉ khi nào đạt đến quả vị Phật, mới thực sự hiểu trọn vẹn. Ý này được kinh Pháp hoa diễn tả là duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng. 

Vì vậy, kinh Pháp hoa là chân lý, nhưng đòi hỏi phải đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, chứng Vô thượng Bồ-đề mới đủ trí tuệ thấy và vận dụng được các pháp để chuyển hóa thành Pháp thân. Nhưng chúng ta chưa đắc đạo, bị các pháp chi phối và người càng chấp pháp nặng thì càng bị chi phối nhiều, tất nhiên càng khổ nhiều. Nhận thức yếu lý như vậy, trên bước đường tu, chúng ta tháo gỡ lần sự chấp trước, đó là điểm khác biệt của Phật giáo với tôn giáo khác chỉ có niềm tin. 

phap hoa.jpg

Tu Pháp hoa, niềm tin đặt căn bản trên trí tuệ. Ý này được kinh Hoa nghiêm khẳng định rằng niềm tin là mẹ sanh ra công đức, nhưng niềm tin không có trí tuệ chỉ đạo sẽ trở thành mê tín và nặng hơn nữa là cuồng tín dẫn chúng ta đến sai lầm. Có thể nói niềm tin theo đạo Phật là niềm tin do trí tuệ chỉ đạo, do nhận thức và áp dụng có kết quả tốt đẹp. Khởi nguồn từ đó, ngài Trí Giả phán giáo, chia giáo lý Phật ra ngũ thời bát giáo, nghĩa là suốt cuộc đời thuyết pháp của Phật có năm thời kỳ, đó là thời kỳ Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã, Pháp hoa và Niết-bàn.

Phán giáo của ngài Trí Giả được đa số cao tăng chấp nhận, nhưng nhìn xa hơn, chúng ta thấy khác hơn. Đến khi ngài Nhật Liên ra đời, cách Trí Giả năm trăm năm, ngài có cái nhìn khác hơn, nên chia ra Tích môn và Bổn môn. Căn cứ trên kinh điển của Phật, hay trên giáo lý mà chia ra, gọi là Tích môn và theo Tích môn là căn cứ trên lý thuyết để học và tu. Tích môn quan niệm rằng Phật xuất hiện trên cuộc đời, ngài tu thành đạo, thuyết pháp rồi Niết-bàn. Và chúng ta nương theo Đức Phật lịch sử như vậy mà tu, hay gọi là tu theo giáo lý. Theo Trí Giả, ngài nói rằng nếu không có Phật xuất hiện trên thế gian này, chúng ta không biết gì để tu, vì tất cả mọi người lúc bấy giờ tu theo tà giáo. Thật vậy, lịch sử ghi rằng trong thời Phật tại thế có chín mươi sáu tôn giáo khác nhau.

Ngài Nhật Liên căn cứ theo phán giáo của Trí Giả tu và ngài đắc đạo, nhìn xã hội khác, nhìn về giáo lý khác, nhìn về Phật khác, gọi là Bổn môn, nghĩa là cái gốc.

Trên bước đường tu, số người tu đông, nhưng chứng thì ít và cũng có nhiều người bị lạc vào ngoại đạo khiến phiền não phát sinh. Kế đến là người tu nhưng không tiến bộ, tu giậm chân tại chỗ. Và hạng người thứ ba, tu có kết quả tốt. Ngài Nhật Liên nói rằng tu thì phải đi lên, không giậm chân tại chỗ, cũng không đi xuống. Có người mới tu, khỏe mạnh, ít buồn, còn vui vẻ; nhưng tu sai thì đầu tiên là bệnh, hay điên khùng, chẳng hạn như người bày cách tu xuất hồn, một thời gian sau thành khùng điên. Hoặc có người bày cho mình tu bằng cách nhịn ăn, uống nước lạnh, làm như vậy được một tháng, cuối cùng tu ép xác như vậy làm cho thân bệnh và phiền não phát sinh. 

Mới đầu chỉ có mình buồn phiền, về sau mình gây buồn phiền cho người khác, nên bạn bè tránh xa mình, tu như vậy là sai rồi. Ngoài ra, có người lo việc tu hành, không làm gì khác nữa, khiến cho việc làm ăn bị thất bại làm cho gia đình buồn phiền, vì rơi vào tình trạng khó khăn, nghèo đói. Chưa tu còn làm ăn được, bạn bè đông, sức khỏe tốt; nhưng tu thế nào mà thân bệnh hoạn, tâm buồn khổ, làm ăn thất bại. Phật không dạy người cư sĩ tại gia tu như vậy, vì Phật dạy khi làm việc gì, ta phải để tâm đến việc đó; nhưng tay làm việc, miệng niệm Phật, đầu nghĩ việc khác là sai hoàn toàn. Tay làm việc do cái đầu chỉ huy, nhưng đầu lại nghĩ việc khác, chắc chắn thất bại.

Tay làm, nhưng đầu nghĩ đến chùa, đến Phật, như vậy được không. Phải khẳng định rằng Đức Phật ở trong công việc của mình để làm cho công việc mình tốt hơn; nhưng làm mà nghĩ đến chùa thì làm gì cũng thất bại. Có Phật tử làm việc ở ngân hàng thưa với Thầy rằng khó quá, vì làm việc không nghĩ đến kinh, không niệm Phật được.

Phật dạy đem Phật vào công việc thì bấy giờ Phật là trí tuệ, không phải là tượng Phật. Phật đang ở trong đầu, trong tim của Thầy, nên tâm Thầy thương người được, Phật ở trong đầu, nên trí tuệ phát sinh. Tu như vậy là kết hợp Phật bên ngoài và Phật bên trong. Vì vậy, ngài Nhật Liên dạy rằng Phật Thích Ca xuất hiện trên cuộc đời là tấm gương để mình suy nghĩ và thực tập giống như Ngài. Nhật Liên ví như chim trong lồng nghe tiếng chim bên ngoài hót làm cho nó biết bên ngoài có bầu trời bao la. Phật đắc đạo để giới thiệu cho chúng ta biết nếu tu theo lời Phật dạy thì mình cũng được như Ngài, cho nên ta phải làm theo Phật. Kinh Nguyên thủy cũng nói chỉ có loài người mới tu thành Phật được. Chó, heo, trâu, bò… không tu thành Phật được. Nếu các loài này muốn tu thành Phật, phải có phước là gặp được vị chân tu chú nguyện cho nó thoát kiếp súc sanh thì kiếp tái sanh nó được làm người và từ thân người mới tu lên được.

Nhật Liên Thánh nhân có cái nhìn xa hơn ngài Trí Giả một bước, vì người đi sau nương vào thành quả của người đi trước sẽ phát huy được thành quả nhanh hơn. Ngài Nhật Liên nói loài người hơn hẳn các loài khác, vì có thể phát triển thành Bồ-tát, thành Phật; nhưng vì dại dột, không biết phát huy đời sống tâm linh, mà còn làm cuộc sống của mình đi xuống, cho đến trở thành các loài hạ đẳng.

Cùng thời với Nhật Liên có một danh tăng được hoàng gia kính nể. Vị này nói rằng ngày nào Nhật Liên còn sống thì ông ăn không ngon, ngủ không yên. Ngài Nhật Liên mới cảnh tỉnh ông rằng tu với mục tiêu ăn ngon ngủ yên thì sẽ thành cái gì, khiến ông càng tức hơn. Phật tử nên lưu tâm, trên bước đường tu, khi mình được kính trọng dễ sanh ra bệnh chấp ngã, chấp pháp. Nếu bực tức, buồn phiền, ghét người là phiền não phát sinh thì tu suốt đời, nhưng cuối cùng đọa địa ngục. 

Lúc nào cũng vậy, tu hành phải nhớ là vô ngã, nghĩa là mình không là gì cả, vì tất cả các pháp do nhân duyên sanh. Hễ bỏ chấp ngã, chấp pháp liền có Niết-bàn, đó là bài học đầu tiên mà Phật dạy về quán Tứ niệm xứ: quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán thọ thì khổ và quán pháp vô ngã. Quán thuần thục như vậy, ta trở thành trí tuệ, kinh Hoa nghiêm gọi là Trí thân; nghĩa là mình có trí tuệ và trí tuệ này do quán các pháp mà sanh ra, do thấy nghe mà sanh ra.

Vì vậy, khi Thầy hiểu đạo không phải chỉ nghe kinh thôi, mà nghe cuộc đời, nghe mọi người trên cuộc đời này mà hiểu. Thầy còn nhớ bốn mươi năm trước, ông Mai Chí Thọ là Giám đốc Công an thành phố, mời Hòa thượng Trí Thủ, Hoà thượng Quảng Độ và Thầy ra Sở Công an để trao đổi. Ông nói rằng ông đọc sách Phật chưa nhiều, nhưng không thấy chỗ nào Phật dạy người ta nổi nóng. Thầy nghe vậy sực tỉnh, nhớ Phật dạy quán Không để giải thoát. Sự kiện này luôn nhắc nhở Thầy đừng bao giờ nổi nóng dù gặp việc khó; chỉ có làm, hay không làm. Nhưng nếu cố gắng làm vượt mức cho phép thì nghiệp sanh ra, như vậy không làm còn hơn.   

Trong kinh Niết-bàn, Phật nói vào kiếp xa xưa khi Ngài hành Bồ-tát đạo, Ngài nghe quỷ Dạ-xoa nói chư hạnh vô thường, nghĩa là hễ cái gì có sanh thì có diệt, nên không bận tâm. Ý này Phật dạy trong quán Tứ niệm xứ là tâm vô thường. Còn đối với thân này, đó là cái túi da đựng đồ ô uế kinh lắm. Như vậy là nhận ra thân này là một khối bất tịnh và nó cũng làm cho mình khổ đau. Ý nghĩa của thân tâm được Thiền diễn tả qua biểu tượng Đạt Ma gánh chiếc giày. Đạt Ma là chân linh. Chiếc giày là thân tứ đại. Chân linh của mình đang gánh thân tứ đại, hay chân linh là trí tuệ phải gánh cái xác này, nhưng không có xác thì trí tuệ cũng không có.

Đức Phật và các vị A-la-hán khi đắc đạo muốn bỏ xác, vì nó là gánh nặng. Thật vậy, trong khi trí tuệ của các Ngài bao trùm Pháp giới, nhưng vì kẹt xác này là phải bệnh, phải ăn uống, phải ngủ nghỉ… rất phiền toái và thân này còn trở thành tấm bia cho người chỉ trích đủ thứ chuyện. Nhưng với huệ nhãn của Huệ Tư thiền sư, bị người đánh chửi, ngài mỉm cười nói rằng đây là bài học, vì người ta chê cái nghiệp của mình, đánh chửi cái nghiệp của mình, không phải đánh chửi mình. Chúng sanh lấy phiền não, lấy nghiệp làm thân, nên khổ đau hoài. 

Khi người khi dể mình nghèo, nhưng tự mình cũng thấy mình nghèo là đồng tình với họ, nên nỗ lực xóa bỏ cái nghèo, xóa bỏ ngu dốt thì mỉm cười được. Thực tế cho thấy nếu nỗ lực tu, có trí tuệ còn ai khi dể được. Điển hình là khi Huệ Tư được vua Trần phong là Đại Thiền sư, ai dám chê ngài nữa. Ngài đồng tình với lời chê ngài nghèo, dốt và gia công tu hành, xóa được nghiệp này thì ngài đắc đạo, chứng đắc pháp tam trí tam quán, thấy mọi việc chính xác khiến mọi người phải kính phục; như vậy, tu hành đã chuyển đổi cái nghiệp bị khi dể thành cái phước được kính trọng. Học theo gương sáng của các ngài, chúng ta không tự ái, phải tự trọng, kiếp này chưa giải được việc khó thì kiếp sau sẽ làm được.

Thực hành pháp quán Tứ niệm xứ, không lo chăm sóc cái thân bất tịnh và quán sát việc thọ nhận là khổ, vì nhận giúp đỡ nhiều là nợ nhiều mà không trả được, vô số vấn đề nảy sinh, bao vây, bức ngặt ta. Trong cuộc sống tu hành, tránh nợ tiền bạc, không nợ lời ăn tiếng nói. Phải tự sống, tự làm được, không nhờ vả. Hoà thượng Trí Tịnh lúc 80 tuổi, ngài còn tự giặt quần áo, vì thọ là khổ, chỉ nhận sự giúp đỡ tối thiểu đủ sống, phần dư để tạo phước.

Quán tâm vô thường, hôm nay vầy, ngày mai khác, nên ta không chấp. Khi Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu chấp nhận Trung Quốc đại diện ở Liên Hiệp Quốc, Đài Loan và Tưởng Giới Thạch bị loại. Thủ tướng Nhật Sato đã tạ tội với Tưởng Giới Thạch, vì ông đã ký công nhận Đài Loan, mà nay cả thế giới công nhận Trung Quốc, nên ông không còn cách gì và đã từ chức. Ông là nhà sư trọng lời hứa và sau khi từ chức, ông đã cạo tóc tu lại. Ông nhận biết cái tâm vô thường, nên phải tùy duyên là tùy hoàn cảnh và có trí tuệ thấy đúng sự thật, sống đúng sự thật, không bị lương tâm cắn rứt. Còn cố chấp thì khác là không được. Tu mà cố chấp giáo lý, cho rằng pháp môn mình tu là nhất, nghĩ vậy là sai. Ngài Nhật Liên chủ trương như vậy, nhưng về sau, đệ tử chấp vô pháp của ngài cũng sai.

Trở lại bài kệ của Dạ-xoa:

Chư hạnh vô thường

Thị sanh diệt pháp

Nghĩa là các pháp tự sanh tự diệt. Nghe xong, Phật nhận được yếu nghĩa và chứng được pháp này. Bấy giờ, Dạ-xoa bảo nếu Ngài muốn nghe hai câu nữa, phải để cho nó ăn thịt Ngài. Đức Phật nói rằng nghe được pháp rồi chết cũng bằng lòng, vì đắc đạo, chứng Pháp thân thì không cần sanh thân. Riêng Thầy thường nói mượn thân tứ đại để tu, vì không có thân không làm được, nhưng đắc đạo thì không cần thân. Phật tử chúng ta nên nhớ ý này.

Dạ-xoa nói thêm:

Sanh diệt diệt thời

Tịch diệt vi lạc.

Năm mươi năm trước, Thầy lấy câu này làm thoại đầu không bao giờ quên. Phật nghe câu này, đắc đạo, Ngài sẵn sàng bỏ thân, bấy giờ Dạ-xoa hiện ra nói rằng nó thử xem Ngài có thật tu hay không. Và Dạ-xoa thưa rằng khi Ngài đắc quả Vô thượng Đẳng giác, nhớ độ nó.

Đối với người tu, lấy pháp tịch diệt làm chính, vì tâm vắng lặng hoàn toàn thì tuệ sanh ra, gom lại là định huệ. Thầy diễn tả lý tịch diệt là tâm trí lắng yên như vào thiền định. Bấy giờ, Đức Phật cùng hàng Thánh chúng phóng quang tiếp độ … Thật vậy, tâm trí lắng yên, huệ sanh thì Phật mới hiện. Tâm trí chúng ta loạn động thì ma hiện. Vì vậy, nhất định lấy tịch diệt làm pháp hành chính yếu, buông tất cả, không giữ gì, kể cả mạng sống, buông hết, không bận tâm.

Trở lại ý của ngài Nhật Liên căn cứ vào lời Phật dạy rằng chỉ có loài người tu hành mới thành Phật, mới có thể phát triển trí tuệ. Các loài khác như con ong, cái kiến muôn đời làm tổ như vậy. Riêng loài người vào thời sơ khai thì ở trong hang đá, nhưng về sau, loài người tiến bộ, cuộc sống thay đổi tốt đẹp rất nhiều. Ngài Nhật Liên nói văn minh con người, trí tuệ con người là Phật giáo. Kinh Pháp hoa lấy trí tuệ làm chính để quán sát sự việc rất tốt. Học đạo, quán sát bằng trí tuệ và kế tiếp, các pháp đều là Phật pháp. Kinh Hoa nghiêm nói rằng không có gì không phải là Phật pháp mới là Phật pháp. Người có trí nhận biết điều xấu để phát triển trí tuệ, mà dân gian thường nói ý này qua câu xe trước đổ, xe sau tránh và dĩ nhiên chúng ta cũng học cả mặt tốt của sự việc.

Học Phật là học trí tuệ. Những gì người trước làm có tốt, xấu, thành, bại, chúng ta nên tổng hợp để làm tốt. Điển hình như Phật Di Đà tổng hợp Tịnh độ của chư Phật mười phương để xây dựng Cực lạc; vì có trí tuệ, dùng trí tuệ biến các pháp thành Pháp thân, đó là trí thân. Có thể nói trí thân là Diệu pháp và Pháp thân là Liên hoa. Biến các pháp thành Pháp thân thì các pháp chỉ có tốt. 

Người có trí tuệ biến hoàn cảnh xấu thành tốt, gọi là thời thế tạo anh hùng. Còn bình yên thì ai cũng như ai. Có khó khăn mới thấy anh hùng xuất hiện. Người biết cách xử sự thì thành công. Có Phật huệ rọi vào, xấu cũng thành tốt. Thí dụ Vô Não là sát nhân, nhưng Phật chuyển hóa Vô Não thành La-hán. Như vậy, ta nói Vô Não xấu hay tốt. Thầy thường nghĩ tại sao họ xấu với mình, mà tốt với người khác. Tốt với người khác vì họ nợ nên phải trả. Người xấu với mình vì mình nợ họ. Vì vậy, sống trên cuộc đời này, cứ vay trả nhau, làm khổ nhau.

Phật huệ rọi vào, việc xấu chuyển thành tốt. Bị vô minh che thì người tốt cũng chuyển thành xấu. Thực tế cho thấy có người được cha ông để lại sự nghiệp lớn lao, nhưng họ làm thành phá sản và ngược lại, có người tay không, nhưng biết chuyển đổi từ số không thành của cải giàu có.

Ngài Nhật Liên nói theo Phật, chúng ta tổng hợp hiểu biết của con người làm trí phương tiện. Khi sinh hoạt chung với các tôn giáo, Thầy thấy ai cũng tốt. Còn người cố chấp gặp người xấu rồi nghĩ rằng tất cả đều xấu là sai. Có trí tuệ, biết người nào tốt, việc nào xấu. Và hơn thế nữa, thấy người xấu cũng biết tại sao sẽ phá bỏ được cái xấu thì cũng thành tốt. Vì vậy, tu sai một lúc, ai cũng tránh mình. Tu đúng, ban đầu chỉ có một mình, nhưng về sau, có nhiều người theo.

Phán giáo ở vòng một là vòng ngoài để chứng được phương tiện trí và dần dần sử dụng văn minh loài người để hành đạo. Ngày nay, chúng ta có điều kiện tốt xây cất được giảng đường lớn và có máy móc thiết bị hiện đại, một người nói cả trăm người nghe và rộng hơn, có mạng internet truyền thông khắp thế giới. Nhờ văn minh, giáo lý truyền bá rộng khắp một cách dễ dàng. Thiết nghĩ văn minh là phương tiện giúp chúng ta tu tốt hơn. Thầy nhờ phương tiện của thời văn minh hiện đại có thể đi khắp mọi nơi phổ biến giáo pháp, làm việc hoằng pháp thành công . Ngày xưa, Thầy định lên núi Thị Vải tu, nếu không được khai ngộ mà ở đó luôn, không biết đời tu ra sao.

Học theo ngài Nhật Liên, nên tiếp nhận văn minh con người. Đức Phật cũng nhờ hiểu rõ văn minh của thời Ngài mà có cái nhìn sáng suốt hoàn toàn. Phật phê phán được những điều sai lầm của các học thuyết, các tôn giáo đương thời, vì Ngài biết rõ đúng sai của họ, nên đưa ra những sửa đổi tốt đẹp, họ mới theo Phật. Chúng ta học kinh Pháp hoa là học như vậy. Cộng tất cả phán giáo là Pháp hoa, đó là phương tiện rộng. Nhưng vô vòng thứ hai là vòng trong thì thu hẹp lại, lấy Phật pháp trong tam tạng giáo điển mà Phật nói để sử dụng soi rọi lòng mình, giúp cho tâm mình sáng lên, soi rọi cuộc đời để thấy việc nên làm, việc nên tránh. Đó là vòng thứ hai phán giáo như vậy.

Tu hành, tổng hợp tất cả mới biết được Phật là gì. Trong kinh Pháp hoa, Phật nói cho Thanh văn, Bồ-tát, chư Thiên khác nhau; chấp một cái không được. Tu Thanh văn, chấp pháp Thanh văn, không biết pháp Bồ-tát không được. Vì vậy, Phật nói nếu chứng La-hán mà chấp Thanh văn thì không phải là La-hán thật. Vòng thứ hai, tổng hợp giáo lý Phật coi mình thuộc thành phần nào, coi pháp nào Phật nói với mình thì lấy đó mà tu, nhất định đạt được kết quả tốt đẹp. Phật nói cho vua, mình không phải là vua thì không dùng. Phật nói cho chư Thiên, mình không cần, chỉ coi cho biết. Pháp Phật nói cho Bồ-tát, nếu thích hợp với mình thì làm theo, không thích hợp không sử dụng. Mình thuộc hàng Nhị thừa thì dùng pháp của Nhị thừa.

Học tất cả các pháp, nhưng coi mình ở thành phần nào, đứng chỗ nào. Đang đứng trên bờ, muốn qua sông phải dùng thuyền. Lên bộ thì không dùng thuyền, phải đi xe. Đang cần gì, ta mở kho giáo lý sử dụng pháp tương ưng thích hợp, đó là phương tiện thuộc vòng thứ hai, tức tất cả giáo lý của Phật đều là phương tiện.

Nhưng đến vòng thứ ba, loại tất cả các pháp khác, chỉ lấy kinh Pháp hoa làm cốt tủy. Các kinh khác để một bên. Nhưng khi làm đạo, trong kinh Pháp hoa Phật dạy ví như ông thợ làm đồ gốm, ai cần thứ gì, ông nặn cái đó. Nếu đối tượng của mình là chư Thiên, hay Nhị thừa thì theo đó sống, lấy Pháp hoa làm chính.

Đến vòng thứ tư của kinh Pháp hoa, chỉ lấy phẩm Như Lai thọ lượng thứ 16 mà thôi. Ngài Nhật Liên thọ trì phẩm 16 coi là cốt lõi, còn các phẩm khác không tụng. Riêng đối với Thầy, theo sự nghiên cứu và thật tu của Thầy, đạo tràng Pháp Hoa chúng ta lấy bảy phẩm tiêu biểu cho yếu nghĩa của kinh Pháp hoa.

Tóm lại, tu theo Bổn môn Pháp Hoa, chúng ta có cái nhìn đúng đắn, cái nhìn chung bao quát và phổ cập, không phân biệt chùa này chùa khác, không phê phán pháp môn này hay, pháp môn kia dở, không chấp ngã, không chấp pháp thì phiền não không phát sinh, tâm định tĩnh và trí tuệ phát huy, từ đó làm lợi ích cho đạo, làm đẹp cho đời, thể hiện ý nghĩa Diệu pháp Liên hoa ngay trong cuộc sống ở thế gian này.  

HT.Thích Trí Quảng

Chia sẻ trên:   

Chia sẻ trên Facebook  Twitter bài viết này  Chia sẻ trên Google      
 
CÁC BÀI VIẾT KHÁC